Nhắc tới trái nhót có lẽ chỉ những người ở Miền bắc mới biết, bởi vì chúng gắn liền với tuổi thơ mọi người..Trái nhót có hình bầu dục, to bằng ngón chân cái, màu đỏ căng mọng cùng với lớp phấn trắng sáng rực ấy khiến nhiều người tỏ ra thích thú. Trong kí ức nhiều người hẳn sẽ hiện ra hình ảnh những cô cậu học trò ngày bé, cầm trái nhót trên tay rồi thi nhau mài lớp phấn trắng vào quần áo. Có lúc chưa kịp rửa đã cầm trái nhót, chấm muối ớt, xuýt xoa đưa lên miệng, ăn ngon lành
Ăn nhót ban đầu thấy chát, thấy chua nhưng lạ kì thay càng ăn càng thấy ngọt. Vị ngọt thấm dần dần, lan tỏa từ nơi đầu lưỡi, lòng tự nhủ lòng chẳng biết ăn bao nhiêu quả mới đủ thỏa mãn. Nhót chín chấm muối ớt cay, chua chua tê tê, là món quà quê tuyệt ngon khó gì sánh nổi.
Lá cây nhót (oliu hoang) chứa tanin, saponosid, polyphenol. Quả nhót chứa rất nhiều chất dinh dưỡng, được dùng để ăn sống hoặc nấu canh chua, vị thơm; quả nhót xanh phơi hoặc sấy khô để làm thuốc. Ngoài quả, lá, nhân hạt, rễ của cây nhót cũng có tác dụng chữa bệnh.
Theo sách “ Từ điển thực vật thông dụng- Võ Văn Chi” , ở nước ta có 9 loài mà 4 loài đã biết công dụng
Tên khoa học của nhót rừng là Elaeagnus bonii Lecomte. Loài của Việt Nam, chỉ được biết có ở Hòa Bình, Ninh Bình. Cây mọc ở bìa rừng
Ra hoa tháng 1-5, có quả tháng 8-10.
Quả chín ăn tươi hay nấu canh chua. Dân gian dùng lá làm thuốc trị bệnh tràng nhạc
Nhót dại tên khoa học là Elaeagnus confeta Roxb. Loài của Ấn Độ, Trung Quốc, iệt Nam và Malaixia. Ở nước ta gặp từ Hà ội vào Đà nẵng tới Khánh Hòa.
Cây mọc trong rừng nhiệt đới, thường được trồng để lấy quả. Ra hoa tháng 3-4, có quả tháng 4-5
Quả dùng ăn tươi hay nấu canh chua, cũng được dùng làm mứt. Quả được dùng làm thuốc cầm tiêu chảy, lỵ mạn tính. Rễ được dùng làm thuốc khư phong, thông lạc, hành khí giảm đau để trị đau nhức xương khớp, đòn ngã ứ đau, khạc ra máu.
Tên khoa học của nhót núi là Elaeagnus gonyanthes Benth. Là loài của Trung Quốc và Việt Nam. Ở nước ta có gặp ở Lào Cai và Thái Nguyên. Cây mọc trên các savan cây bụi ven rừng
Ra hoa quả vào tháng 12
Quả ăn được. Quả, lá, rễ được sử dụng làm thuốc. Quả dùng trị viêm ruột tiêu chảy; lá dùng trị viêm nhánh phế quản mạn tính, hen phế quản, cảm mạo và ho, Rễ dùng trị phong thấp đau nhứt khớp xương, đòn ngã ứ đau, thổ huyết và chó dại cắn.
Nhót LoureiroTên khoa học là Elaeagnus loureirii Champ. Loài của Trung Quốc và Bắc Việt Nam, có gặp tại Sa Pa. tỉnh Lào Cai.
Cây mọc trong các savan cây gỗ.
Ra hoa vào tháng 10-12
Quả ăn được hoặc dùng ủ rượu. Ở Vân Nam, quả được dùng làm thuốc thu liễm, cầm tiêu chảy và trừ ho. Ở Hương Cảng, người ta người ta dùng cả quả, lá, rễ làm thuốc trị hen, viêm phế quản, khái huyết giả, đau dạ dày, viêm gan mạn tính, viêm xương tủy. viêm tinh hoàn cấp.
Nhót trườn có tên khoa học là Elaeagnus sarmentosa Rehd. . Loài của Trung Quốc và Bắc Việt Nam, có gặp tại núi Mẫu Sơn ,tỉnh Lạng Sơn
Ở Vân Nam Trung Quốc, rễ, lá và quả được dùng làm thuốc. Rễ dùng trị đau họng, cảm mạo, khạc ra máu, nôn ra máu, kinh phong, phong thấp, đòn ngã; Lá dùng trị suyễn khan, ho, viêm nhánh khí quản mạn tính; Quả dùng trị viêm ruột, tiêu chảy
Nhót cuống dài có tên khoa học là Elaeagnus viridis Servett. Loài của Trung Quốc và Bắc Việt Nam, ở nước ta chỉ gặp ở Sa Pa ,tỉnh Lào Cai
Cây mọc trong các savan cỏ, ở sườn núi, ven đường, trong lùm bụi ở độ cao lên tới 1500 – 1800m.
Ra hoa vào tháng 9
Lá và cành non được sử dụng làm thuốc. Ở Vân Nam , người ta dùng trị viêm thận mạn tính, sỏi thận, đau dạ dày, viêm gan, viêm nhánh khí quản mạn tính và suyễn khan
Theo Từ điển thực vật thông dụng – PGS. TS Võ Văn Chi